Thứ Bảy, 5 tháng 3, 2016

Nguyễn Vỹ (1912 - 1971)



















Nguyễn Vỹ
(1912 - 4/2/1971) 
Quảng Ngãi
Hưởng dương 59 tuổi
Nhà thơ, Nhà văn, Nhà báo
Các bút hiệu khác : Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.













Gởi Trương Tửu

 trích...

 Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác!
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang,
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê,
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!!

Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,
Và nhìn chúng mình hì hục viết,
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh,
Đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh!


 ......



Nguyễn Vỹ là tác giả hai bài thơ: "Gởi Trương Tửu" và "Sương rơi", từng gây tiếng vang trong nền thơ ca đương thời.










 
Tiểu sử(1)

Nguyễn Vỹ sinh tại làng Tân Hội (sau đổi là Tân Phong, năm 1945 lại đổi là Phổ Phong), huyện Ðức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Cha ông tên Nguyễn Thuyên[2] từng làm quan ở huyện Tuy Phước tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để chống Pháp. Mẹ ông là bà Trần Thị Luyến.
 
Ông học Trường Trung học Pháp - Việt, Qui Nhơn (1924) và khi đang học năm thứ 3 (1927) thì bị đuổi vì tham gia phong trào bãi khóa.

Ra Hà Nội học, đậu tú tài toàn phần (1932), ông dạy tại Trường Thăng Long, Hà Nội và viết cho các tờ như La Patrie Annamite, L’Ami du Peuple Indochinois, Tiếng dân, Văn học Tạp chí, Đông Tây Tuần báo, Phụ nữ Tuần báo, Tiểu thuyết Thứ năm...


Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, tên là Tập thơ đầu, gồm hơn 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Thi phẩm này in ra không được nhiều thiện cảm, bị cho là rườm rà, "nhiều chân" và là đối tượng chê bai chính của Lê Ta (Thế Lữ) trên các báo.

Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ Việt-Pháp lấy tên là Le Cygne, tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn nổi tiếng bấy giờ là Trương Tửu cộng tác. Sau do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị kết tội phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia, bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3.000 quan tiền.

Năm 1939, Nguyễn Vỹ mãn tù lúc Pháp thất trận, quân Nhật vào chiếm đóng nước Việt. Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, bằng cách soạn và cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật là: Kẻ thù là Nhật bản, Cái họa Nhật-Bản.

Lần này, Nguyễn Vỹ lại bị nhà cầm quyền Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê (sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong tù ngục với tựa bài Người tù 69).

Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra tù, sống và sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài Gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo này bị đóng cửa.

Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại. Tồn tại chẳng bao lâu, đến lượt tờ báo trên cũng bị đình bản.

Năm 1952, một nhật báo khác cũng do Nguyễn Vỹ chủ trương là tờ Dân ta, sống được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước.

Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ Thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam. Ngoài ra, ông còn cho ra tuần báo Bông Lúa, tuần báo thiếu nhi Thằng Bờm.

Năm 1956, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ Thông mà thôi.

Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông qua đời do tại nạn xe hơi trên đoạn đường Tân An (thuộc tỉnh Long An)-Sài Gòn, hưởng dương 59 tuổi.










Tác phẩm







 1
Tập thơ đầu - Premières poésies
(thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934






2
Đứa con hoang
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Minh Phương, Hà Nội, 1936






3
Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên
(tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn)
Nhà xuất bản Đông Tây, Hà Nội, 1937







4
Kẻ thù là Nhật Bản
(luận đề chính trị)
Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 1938







5
Cái họa Nhật Bản
(luận đề chính trị)
Nhà xuất bản Thanh Niên, Hà Nội, 1938






6
Đứng trước thảm kịch Việt Pháp-Devant le drame Franco Vietnamien,
(luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn)
tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947






7
Hào quang Đức Phật
(luận đề tôn giáo)
tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948







8
Thi sĩ Kì Phong
(tiểu thuyết, 1938)







9
Chiếc Bóng
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Cộng Lực, Hà Nội 1941







10
Chiếc áo cưới màu hồng
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Dân Ta, Sàigòn 1957








11
Người yêu của hoàng thượng
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Minh Phương, Hà Nội 1958)









12
Giây bí rợ
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Dân Ta, Sàigòn 1957








13
Hai thiêng liêng I
Hai thiêng liêng II
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Dân Ta, Sàigòn 1957








14
Hoang vu
(thơ)
Nhà xuất bản Phổ Thông, Sàigòn 1962








15
Mồ hôi nước mắt
(tiểu thuyết)
Nhà xuất bản Sống Mới, Sàigòn 1965







16
Những đàn bà lừng danh trong lịch sử
(biên khảo)
Nhà xuất bản Sống Mới, Sàigòn 1970







17
Tuấn, chàng trai nước Việt I
Tuấn, chàng trai nước Việt II


(chứng tích thời đại)
Nhà xuất bản Triêu Dương, Sàigòn, 1970








18
Văn thi sĩ tiền chiến
(ký ức văn học)
Nhà xuất bản Khai Trí, sàigòn, 1970







19
Buồn muốn khóc lên
(thơ)
1970








20
Mình ơi
(văn hóa tổng quát)
1970








21
Thơ lên ruột
(thơ trào phúng)
1971


















Thơ Nguyễn Vỹ

Hoang vu 
(Thơ, Phổ thông tùng thư/ 1962)





Đêm sầu về
Ta muốn được những cánh tay êm thắm
Ru hồn ta như đứa trẻ trong nôi
Một quán trọ trong lòng ai êm ấm
Khi lạc loài trên nẻo vắng xa xôi

Gót phiêu lãng còn vương thề muôn dặm
Bình nước non chưa cạn hết ly bôi
Sao Bắc đẩu tít mù xa thăm thẳm
Kiếp tài hoa còn hận mãi chưa thôi

Bao nhiêu đêm không bến bờ cô quạnh
Ta âm thầm ôm khóc ánh sao rơi
Nếu ta biết một khu trời Vạn Hạnh
Trăng không tàn mà hoa cũng không trôi

Ôi giếng thẳm biết bao giờ mới tạnh?
Nắng muôn chiều đã chết lịm trên môi
Tim đọng tuyết rã rời tan những mảnh
Đêm sầu về tê lạnh lắm, đêm ôi!






 Cũng thế thôi
Lắm lúc tôi buồn tôi bảo tôi:
nói làm chi nhỉ? Phí lời thôi
Kệ thây thời thế, thời là thế
Trống ngược kèn xuôi, cũng thế thôi

Tả hữu xun xoe, dở lắm mòi
Cũng người xuống chó, kẻ lên voi
Cũng phường lòi tói năm ba chữ
Múa mép rùm beng cũng thế thôi

Bán lợi buôn danh chật chợ trời
Rộn ràng hôm sớm bóng ma trơi
Say sưa ngất nghểu ngày tan chợ
Phủi áo ra về, cũng thế thôi

Cứ điếc, cứ câm, cứ mặc đời
Mặc thời, mặc thế, để buông trôi
Mặc người khôn dại, còn hay mất
Ai mất, ai còn, cũng thế thôi






Chim hấp hối
Một con chim xanh,
Đang hót trên cành,
Bổng vang tiếng súng!
Lìa cành rơi xuống!…
Đôi cánh mong manh…

Thôi, chim chết rồi!
Máu chảy trên trời,
Rơi từng giọt đỏ,
Nhuộm sẫm không gian.
Rơi từng giọt nhỏ…
Loang lỗ nắng vàng.

Chim con chết oan,
Chíp chíp kêu van,
Hai chân run rẩy…
Đôi mắt đục ngầu,
Đôi dòng lệ chảy…
Tìm ổ chim đâu?

Tiếng chim lâm ly
Nhìn ta biệt ly;
Não nùng bi đát!
Than ôi, chim con
Chết còn muốn hát.
Trên nấm cỏ non.

Ta cũng như chim,
Mang một trái tim
Đìu hiu, tan tác.
Nặng vết sầu thương
Mà ta vẫn hát,
Hết kiếp tơ vương!

Chim con véo von
Trên cành xanh non,
Vui ca hớn hở,
Hỡi tiếng súng vang!
Than ôi, sao nỡ…!
Hỡi người dã man!

Này đây xác chim.
Lại đây mà xem!
Chim nằm hấp hối…
Hỡi ai, sao đành
Giết loài vô tội,
Giết con chim xanh?

Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, NXB Xuân Thu , 2000







 Gửi Trương Tửu
(Viết trong lúc say)

Nay ta thèm rượu nhớ mong ai!
Một mình nhấp nhém, chẳng buồn say!
Trước kia hai thằng hết một nậm,
Trò chuyện dông dài mặt đỏ sẫm.
Nay một mình ta, một be con:
Cạn rượu rồi thơ mới véo von!

Dạo ấy chúng mình nghèo xơ xác,
Mà vẫn coi tiền như cỏ rác!
Kiếm được đồng nào đem tiêu hoang,
Rủ nhau chè chén nói huênh hoang,
Xáo lộn văn chương với chả cá,
Chửi Đông, chửi Tây chửi tất cả,
Rồi ngủ một đêm, mộng với mê,
Sáng dậy nhìn nhau cười hê hê!!

Thời thế bây giờ vẫn thấy khó,
Nhà văn An nam khổ như chó!
Mỗi lần cầm bút viết văn chương,
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương,
Và nhìn chúng mình hì hục viết,
Suốt mấy năm giời kiết vẫn kiết,
Mà thương cho tôi, thương cho anh,
Đã rụng bao nhiêu mái tóc xanh!

Bao giờ chúng mình thật ngất ngưởng?
Tôi làm Trạng nguyên, anh Tể tướng?
Rồi anh bên Võ, tôi bên Văn,
Múa bút tung gươm hả một phen?

Cho bõ căm hờn cái xã hội
Mà anh thường kêu mục, nát, thối?
Cho người làm ruộng, kẻ làm công
Đều được an vui, hớn hở lòng?
Bao giờ chúng mình gạch một chữ
Làm cho đảo điên pho Lịch sử?
Làm cho bốn mươi thế kỷ xưa
Hất mồ nhỏm dây cười say sưa
Để xem hai chàng trai quắc thước
Quét sạch quân thù trên Đất Nước?
Để cho toàn thể dân Việt Nam
Đều được tự do muôn muôn năm?
Để cho muôn muôn đời dân tộc
Hết đói rét, lầm than, tang tóc?
Chứ như bây giờ là trò chơi,
Làm báo làm bung chán mớ đời!
Anh đi che tàn một lũ ngốc,
Triết lý con từu, văn chương cóc!
Con tôi bưng thúng theo đàn bà,
Ra chợ bán Văn, ngày tháng qua!

Cho nên tôi buồn không biết mấy!
Đời còn nhố nhăng ta chịu vậy!
Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,
Bực chí thàng say mấy cũng vừa!
Mẹ cha cái kiếp làm Thi sĩ!
Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ!
Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,
Rốt cuộc chỉ còn... mộng với mơ!

(Viết rồi hãy còn say)
Báo Phụ nữ.

Nguồn: Hoang vu, Phổ thông tùng thư ấn hành, Nguyễn Vỹ, 1962







 Hai con chó 
Nguyễn Vỹ có viết hai quyển sách "Cái hoạ Nhật Bản" "Kẻ thù là Nhật Bản" bị quân đội Nhật ở Hà Nội bắt giam chiều 30 Tết trong hầm kín của Sở Hiến binh Nhật, Kampetai. Ông cùng bị giam với bốn người Việt khác. bài thơ này làm trong phòng ngục tử hình, thấp và chật, như cái chuồng chó, đêm giao thừa Nhâm Ngọ, 1942.



Chuồng ngục tối om, kìa bốn xó
Bốn thằng bơ bơ như bốn chó
Chẳng được nói năng, chẳng được cười
Hai chân chồm hỗm ngồi co ró

Lưng rít mồ hôi, không dám cọ
Ngứa ngáy tay chân không rậy rọ
Rệp bò lên cổ, leo lên đầu
Muỗi bay khiêu vũ, kêu ó ó

Một tên linh Nhật ngồi ngay đó
Nét mặt hầm hầm, tròng mắt lỏ
Đeo chiếc gươm dài, cầm roi da
Thỉnh thoảng quất lên bốn đầu sỏ

Hắn uống rượu gì màu đỏ đỏ
Như uống máu tươi trong cái sọ
Kìa nó gật gù, đầu ngả nghiêng
Máu nhểu quanh môi từng giọt nhỏ

Hai mắt đỏ hoe xoay tròn ngó
Thằng tù lim dim trong một xó
Hắn sả ba roi lên đỉnh đầu
Thằng tù rụt vai, mặt mếu mó

Một thằng tù khác ngồi nhăn nhó
Tay run cầm cập, răng gỏ mỏ
Sốt rét lên cơn, không dám nằm
Cúi đầu lạy lạy như xin xỏ

Thằng tù thứ ba ngồi nhóc mở
Da mặt xanh lè, mắt tho lỏ
Hắn bị tra điện hồi đầu hôm
Giờ như cái xác con ma xó

Thằng tôi chờ chết, ngồi co ró
Làm thơ âm thầm lấy vần "chó"
Bỗng một chó Nhật vừa đi qua
Đứng ngoài song sắt trố mắt ngó

Nó nhìn thằng tôi, tôi nhìn nó
Thông cảm cùng nhau hai đứa chó!
Bỗng dưng tôi cười ha! ha! ha!
Nó cũng vẫy đuôi cười hó! hó!

Tên lính Nhật hoàng la xí xó
Đạp giày lên lưng xua đuổi nó
Rồi quật roi da lên đầu tôi
Ào ào ạt ạt như Thần gió!

Chó Nhật ẳng ẳng chạy gần đó
Quay lại vẫy đuôi đứng lấp ló
Rồi tôi nhìn nó, nó nhìn tôi
Thông cảm cùng nhau hai đứa chó!

Hà Nội mừng xuân năm Nhâm Ngọ
Pháo nổ tưng bừng đèn sáng tỏ
Chó Nhật vẫy đuôi chờ tôi ngâm
Dăm chục câu thơ mừng kiếp chó!

Ôi tôi ôi, tôi ôi là tôi!
Ôi chó ôi, chó ôi là chó!

Nguồn: Hoang vu, Phổ thông tùng thư, 1962.







Hai người điên
Một xó Sài Gòn
Một căn phố con
Hoang vu thanh vắng
Bốn bề phẳng lặng

Nàng, tôi, hai người
Chỉ ôm nhau cười
Không nói
Ôm nhau nằm lăn
Cả ngày không ăn
Không đói

Không ăn
Không nói
Chỉ hôn nhau
Thật lâu
Từng sợi tóc
Và cắn nhau
Thật đau
Để cho khóc
Rồi hai người
Ôm nhau cười
Lăn lóc

Nàng và tôi
Hai đứa
Thật xứng đôi
Vừa lứa
Nàng với tôi
Đều mồ côi
Gặp nhau
Rồi yêu
Rồi nhớ
Rồi kêu
Rồi mớ
Suốt đêm suốt ngày
Trưa hôm nay
Chúng tôi say
Nằm thiêm thiếp
Vừa một chập
Hai nàng Tiên
Bay qua đấy
Trông thấy
Sẽ nhủ:
"Để yên
Hai người điên
Đang ngủ!"







Hoa phượng
 
Trên đường nắng ngập tràn hoa phượng đỏ
Em bui ngùi không nỡ bước, anh ơi!
Những cánh hoa hiu hắt rụng bên trời
Chép trong gió mấy đời hoa vĩnh biệt!

Xác hoa rụng phải chăng hồn hoa chết?
Sắc hoa tàn tan tác một đời hoa?
Bao mảnh tim rỉ máu, lệ chan hoà
Là những vết thương lòng đang nức nở.

Gió tàn nhẫn trút hoa như thác đổ
Trên tóc em, ngập xuống cả làn môi
Một giấc mơ rời rã lững lờ trôi,
Em muốn vớt ôm về chôn nếp áo.

Kẻo gió bụi mịt mù trong nắng ảo
Dập vùi hoa, ảo não mảnh hương trinh,
Khách qua đường vội vã, quá vô tình
Giẫm lên cả hồn hoa trên xác máu!...


Nguồn: Hoa trong thi ca, tuyển thơ nhiều tác giả, NXB Hội nhà văn, 2007








Hoàng hôn
Một đàn
       Cò con
                 Trắng nõn
                       Trắng non
                          Bay về
                                     Sườn non
                                          Gió giục
                                   Mây dồn
                            Tiếng gọi
                         Hoàng hôn
               Buồn bã
        Nỉ non
Từ giã
             Cô thôn...
                 Còn con
                      Cò con
                                 Trắng non
                      Nào kia
             Lạc bầy
     Lại bay
Vào mây

            Ô kìa!

1950







 Một mình
Một trời, một biển bao la,
Một mây, một gió, một ta, một mình!
Trần ai một kiếp lênh đênh,
Trăm thương, nghìn nhớ, một mình, một ta!

Nha Trang, 1960
Nguồn: Hoang Vu/ Thơ Nguyễn Vỹ/ Phổ thông tùng thư, 1962








 Mơ tuyết
Tôi biết thời gian quá ỡm ờ
Rải trăng rãi gió ngập vần thơ!
Đêm nay tan tác giàn Sao rụng:
Tuyết trắng âm thầm ngập giấc mơ!

Tuyết nở muôn hoa dưới nguyệt đình
Tuyết ươm rào rạt áng hương trinh
Tuyết buông tha thướt trên cành gió
Tuyết rũ màn tơ xuống bóng mình...

Tôi mở lòng hoa chép một bài
Nhưng hoa tuyết rụng ngập trần ai!
Vần thơ mơ tuyết còn trong trắng
Tôi hái mơ về... để tặng ai?

Rằm tháng hai Kỷ Hợi








Mưa rào
Mưa
Lưa thưa
Vài ba giọt...
Giọt lệ tình đau xót?...
Nhưng mây mờ mịt gió đưa
Cây lá rụng xào xạc giữa trưa.
Mưa đổ xuống ào ạt, mưa, mưa, mưa!
Thời gian trôi tan tác theo tiếng mưa cười!
Không gian dập vùi tan tác theo thác mưa trôi,
Đàn em thơ nhào ra đường, giỡn hớt chạy dầm mưa!
Cỏ hoa mừng nên vận hội, ngả nghiêng tắm gội say sưa!
Nhưng ta không vui không mừng, lòng không ca không hát!
Ta đưa tay ra trời, xin giòng mưa thấm mát
Tưới vết thương lòng héo hắt tự năm xưa!
Nhưng ô kìa! Mưa rụng chóng tàn chưa!
Trời xanh xanh, mây bay tan tác.
Ai còn ươm hạt mưa đào,
Lóng lánh trong tim Hoa?
Ai ươm mưa sầu,
Ôi mong manh,
Trong tim
Ta!

Bài thơ được trình bày theo dạng một hình thoi. Từ câu đầu một chữ, rồi hai, ba, bốn chữ, v.v,... tăng đến một cao độ rồi số chữ trong câu giảm dần, câu cuối chỉ một chữ. Tác giả diễn tả một cơn mưa thoạt đầu vài giọt, rội đổ ào như trút, rồi thưa thưa dần chỉ còn một giọt và tạnh hẳn.

Nguồn: Việt Nam thi nhân tiền chiến, Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, Nxb Xuân Thu








Sương rơi
Sương rơi
Nặng trĩu
Trên cành
Dương liễu...
Nhưng hơi
Gió bấc
Lạnh lùng
Hiu hắt
Thấm vào
Em ơi,
Trong lòng
Hạt sương
Thành một
Vết thương!..

Rồi hạt
Sương trong
Tan tác
Trong lòng,
Tả tơi
Em ơi!
Từng giọt
Thánh thót,
Từng giọt
Điêu tàn
Trên nấm
Mồ hoang!...

Rơi sương
Cành dương
Liễu ngả
Gió mưa
Tơi tả
Từng giọt,
Thánh thót
Từng giọt,
Tơi bời
Mưa rơi,
Gió rơi,
Lá rơi,
Em ơi!...
 
Theo Tạp chí văn học, 1935.
Nguồn: Hoài Thanh, Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 2007







Tiếng Việt
Tiếng ta ngày mỗi mới
Dân ta ngày mỗi lên
Dân ta càng tiến tới
Tiếng ta càng dâng lên
Cao trào ào ạt tới
Biển học rộng vô biên
Tiếng ta như gió mới
Dân ta như con thuyền
Buồm căng bay phấp phới
Mang sự nghiệp Rồng Tiên
Bơi đua cùng Thế giới
Khắp phương trời mông mênh
Dân ta càng quật khởi
Tiếng ta càng vươn lên!
Dân ta càng tiến tới
Tiếng ta ngày vươn lên!

1962








Mưa trong tù
Mưa róc rách
Ngoài vách
Mưa tuôn
Suốt đêm trường
Mưa vương
Lòng thương
Quê hương
Xa cách,
Mưa róc rách
Ngoài vách
Mưa tuôn
Giọt đàn mưa
Khi thưa
Khi nhặt
Rơi tí tách
Lòng khách
Réo rắt
Tơ buồn.

Mưa rỉ rách
Ngoài vách
Mưa tuôn.
Mưa trên mái
Mưa hoài
Mưa mãi.
Mưa ngoài
Quan ải
Mưa khắp
Bốn phương.

Suốt đêm trường
Mưa vương
Sầu thương
Quê hương
Xa cách
Mưa rỉ rách
Ngoài vách
Mưa tuôn.
Mưa, mưa, mưa!
Những mưa
Đêm xưa
Ồ ạt xối về!
Những mưa
Đêm xưa
Đêm nay tràn trề!

Trong tù quạnh hiu
Ta nằm buồn bã
Nghe mưa
Đêm xưa
Trôi về.

Bao nhiêu
Tình yêu
Phiêu lưu
Tan rã!
Bao nhiêu
Giọt lệ
Anh hùng.
Bao nhiêu
Ai oán
Não nùng.
Bao nhiêu
Sầu hận
Non sông
Trôi về
Mênh mông!

Mưa xào xào
Đổ vào
Song sắt
Đổ vào
Xa lắc
Trong hố lòng hoang
Mưa lắc rắc
Hiu hắt
Không bến, không bờ
Bao giờ
Mưa tan?
Bao giờ
Gió đưa
Giòng mưa
Trôi về bến xưa
Bao nhiêu năm xưa
Lòng chưa
Hết mưa! 







Quảng Ngãi – quê hương tôi
Nhiệm màu guồng xe nước
Tha thướt chập chùng
Lên men đồng lúa mướt
Lả lướt mênh mông
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Thương thương làn mây trôi
Mơn cảnh đồi Thiên Ấn
Vương vương sầu tơ nắng
Nút Bút vùng phương khôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dòng sông rạo rực
Lưng Rồng uốn khúc
Rực rỡ ánh dương ngời
Trùng trùng gấm vóc
Huyết lệ sử dân Hời
Từ Chiêm Thành khai quốc
Dâng về ngôi Đại Việt
Trọn ân tình Chúa, Tôi
Quảng Ngãi – quê hương tôi
Dân tình bất ly
Dân trí bất nhược
Dân đức bất suy
Dân tâm bất khuất
Khí thiêng nung đúc
Văn chương kiệt phách hào hoa
Bất chấp cường quyền, uy vũ

1970









 Nguyễn Vỹ








Đánh giá

Bên cạnh những tập sách biên khảo có giá trị như Văn thi sĩ tiền chiến, Tuấn-chàng trai nước Việt… Nguyễn Vỹ còn viết nhiều bộ tiểu thuyết, nhưng được đánh giá là không thành công[3].

Riêng về thơ, ông nhận được nhiều lời khen chê. Trong Tập thơ đầu (1934), Nguyễn Vỹ có đăng vài bài theo lối 12 chân (alexandrins), một lối thơ mới trên thi đàn Việt Nam, nhưng không lạ gì đối với thi đàn phương Tây: Đến ngày nay cảnh non sông đã phủ mấy lớp sương mù Mà còn rên dưới rễ cỏ những vết hận lòng lai láng...(Gửi một thi sĩ của nước tôi, Hà Nội báo, số 23, 1936)

Vì lẽ đó, Thế Lữ cho rằng ông có ý định toan lòe và bịp mọi người[4], còn Vũ Ngọc Phan thì viết: Với thời gian, không một ai có thể bị cám dỗ mãi về những cái tầm thường, chỉ cầu kỳ có bề mặt[5].

Giới thiệu Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh và Hoài Chân cũng đã viết như sau: Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng trống, xập xoèng inh cả tai. Chúng ta đổ nhau xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì...

Chê bai, nhưng ngay sau đó hai ông cũng phải nhìn nhận: Một bài như bài "Sương rơi" được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để diễn tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt lệ...Nhưng "Sương rơi" còn có vẻ một bài văn. "Gửi Trương Tửu" mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người.[6].

Khác với các ý trên, Lan Khai trong báo Đông Phương, Phạm Huy Thông trong báo L’Annam nouveau (báo của Nguyễn Văn Vĩnh), Lê Tràng Kiều trong Hà Nội báo (số 23, ngày 10 tháng 6 năm 1936) đều hết sức khen ngợi thơ Nguyễn Vỹ.

Ở Sài Gòn, trong quyển Hồn Thơ nước Việt thế kỷ XX[7] tác giả Lam Giang đã nhận định như sau: Phê bình Nguyễn Vỹ, Hoài Thanh phát biểu một ý kiến võ đoán: "Nguyễn Vỹ chí lớn mà tài nhỏ nên hay lập dị, chứ thật sự ít có thành tích văn chương". Tôi thiết tưởng cái công du nhập đầu tiên lối thơ nhạc vào thi đàn Việt Nam, giữa lúc rất nhiều người chỉ chăm lo đả kích Luật Đường, chứ chưa sáng tạo được một thể điệu gì mới, cũng đáng cho chúng ta nhìn tác giả với một nhãn quang nhiều thiện cảm hơn.

Năm 1962, tập thơ thứ nhì mang tên Hoang vu ra đời. Bình luận về tập thơ này, nhà văn Thiết Mai trong tờ Sáng dội miền Nam viết: Nguyễn Vỹ đã nếm mùi tân khổ, gian lao...lại ở vào cảnh giao thời của hai thế hệ, trong tình trạng bi đát nhất của lịch sử nước nhà, nên Nguyễn Vỹ đã trở thành con người rắn rỏi, yếm thế...rồi đi đến tâm trạng căm hờn, biếm nhạo, khắt khe, chua chát...Nhưng lúc trở lại với bẩm tính vốn có, chúng ta thấy ông hiền dịu, đa tình, đa cảm, thiết tha với một đời sống êm đềm...Về tài thơ, ta thấy thơ của ông được cấu tạo dễ dàng, không gò ép...Điều đáng chú ý là ông như muốn đưa những thể mới, có tác dụng gây xúc cảm, có âm điệu du dương, hợp tình để gợi tình và tả chân mạnh hơn. Thể mới ấy được thấy trong các bài thơ: Sương rơi, Mưa rào, Tiếng chuông chùa...Về ý thơ, Nguyễn Vỹ đã có nhiều ý tưởng, nhiều câu văn táo bạo (Hai người điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh...). Điều này khiến thơ của ông thoát ra khỏi lối thường tình, cổ điển và cũng chứng tỏ ông là con người có nội tâm cứng rắn, thành thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng...

Đề cập đến Nguyễn Vỹ, trong Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển Thượng) có đoạn: Nguyễn Vỹ góp mặt vào làng thơ tiền chiến từ năm 1934, thời kỳ thơ mới đang hồi phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, phần đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn, chuyện tình ái vào thi ca...Nhưng với Nguyễn Vỹ, có thể nói nhà thơ không lấy tình yêu làm đối tượng, vì thế thơ ông có một đường nét độc đáo riêng biệt.Đọc Nguyễn Vỹ, người ta cảm nhận những điều mỉa mai, chua chát...là sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì trong hiện tại đang bị dồn ép, uất ức để nói lên nỗi thống khổ của kiếp người...Thời tiền chiến, thân phận Nguyễn Vỹ đã thế, nhưng với ý chí phục vụ văn nghệ, trung thành đường hướng vạch sẵn, ông, một nhà thơ từng chịu nhiều cam go trên đường tạo lập văn nghiệp, đã kiên trì xây dựng lại Trường thơ Bạch Nga trong bán nguyệt san Phổ Thông từ Trung thu năm 1962 và được nhiều bạn đọc hưởng ứng, chứng tỏ lời nói trước kia của Lê tràng Kiều là đúng: "Người ta công kích ta, chỉ chứng tỏ là ta sống". Vậy, Nguyễn Vỹ ngày nay hãy yên ổn với trường phái của mình."Nguyễn Vỹ là một nhà thơ có thực tài. Ông có cái nhìn thường xuyên vào thực trạng xã hội, theo dõi những màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc đã chịu nhiều thảm họa; hòa lẫn vào đấy là tình thương yêu đồng loại. Tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là tiếng nói chân thành phát xuất tự con người còn nghĩ đến quê hương.[8]



 &


 Trong cuốn Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh, Hoài Chân đã từng viết đề tựa trong phần về Nguyễn Vỹ:  

“Nguyễn Vỹ đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoè inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng chúng ta lại tưng hửng trở vào vì ngoài cái lối ăn mặc và những điệu bộ lố lăng, lúc đầu ta thấy con người ấy không có gì.

Táo bạo thì táo bạo thực, nhưng trong văn thơ táo bạo không đủ đưa người ta ra khỏi cái tầm thường. Khi Nguyễn Vỹ hô hào:
Ta hãy truyền một thi hứng mới cho thế kỷ hai mươi,
Ta hãy ký thác trong vần thơ những tình sâu ý hiếm.
người có biết rằng trong hai câu này không có lấy một chút "tình sâu ý hiếm", và mặc dầu cái lốt mới rềnh ràng của chúng, chúng vẫn có thể nằm sắp hàng với những câu sáo nhất xưa nay mà không chút... ngượng. Tránh tầm thường mà lại rơi vào tầm thường là thế.

Nguyễn Vỹ quả đã muốn loè những kẻ tầm thường là bọn chúng ta. Thực ra, chúng ta cũng dễ bị loè. Nhưng ở chỗ nào khác kia. Chứ trong văn chương thì hơi khó. Một hai người có thể lầm; năm mười người, trăm ngàn người có thể lầm, chứ cả đám người mênh mông không tên tuổi kia ít khi lầm lắm. Chúng ta có thể lầm trong một hai năm, chứ lầm luôn trong năm bảy năm hay lâu hơn nữa, là chuyện thảng hoặc mới có.

Tôi tin rằng linh hồn chung của một lớp người đủ phức tạp để cảm thông với hầu hết những thơ văn có giá trị. Một bài như bài Sương rơi được rất nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì đương rơi. Cái gì đó có thể là những giọt sương, cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt gì vẫn rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng lẽ.

Nhưng Sương rơi còn có vẻ một bài văn. Gửi Trương Tửu mới thực là kiệt tác của Nguyễn Vỹ. Trong lúc say, Nguyễn Vỹ đã quên được cái tật cố hữu của người, cái tật loè đời. Người đã quên những câu thơ hai chữ. Người dùng một lối thơ rất bình dị, rất xưa, lối thất ngôn tràng thiên liên vận và liên châu. Lời thơ thống thiết, uất ức, đủ dãi nỗi bi phẫn cho cả một hạng người. Một hạng người nếu có tội với xã hội thì cũng có chút công, một hạng người đã đau khổ nhiều lắm, hạng sống bằng nghề văn. Hãy cho đi là họ không có gì xuất chúng; thì ít nhất họ cũng đã nuôi những giấc mộng to lớn khác thường. Nhưng đời không chiều họ; đụng vào sự thực, những giấc mộng của họ đều tan tành và lần lượt bỏ thây ở dọc đường hay trong một căn phòng bố thí.

Nguyễn Vỹ đã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn giận vì cái nghiệp văn chương. Những ai cùng một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên được. Trong lời văn còn chút nghênh ngang từ đời xưa lưu lại. Nhưng ta đã xa lắm rồi cái kiêu ngạo phi thường của Lý Bạch, chỉ biết có văn chương còn khinh hết thảy:


Khuất bình từ phú huyền nhật nguyệt.
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
Hứng cam lạc bút giao ngũ nhạc,
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Với Nguyễn Vỹ, chúng ta đã mất hẳn cái cười kiêu ngạo ấy và ngơ ngác thấy sắp cùng hàng với... chó.

Cái lối sắp hàng kỳ quái ấy đã làm phật ý Tản Đà. Một hôm say rượu, Tản Đà trách Nguyễn Vỹ: “Sao anh lại ví nhà văn chúng mình với chó? Anh không sợ xấu hổ à?”. Nguyễn Vỹ đáp lại, cũng trong lúc say: “Tôi có ví như thế thì chó xấu hổ, chứ chúng ta xấu hổ nỗi gì?”
.





 
Chú thích 


1.Tiểu sử Nguyễn Vỹ, căn cứ theo Văn Thi sĩ tiền chiến của Nguyễn Vỹ (NXB Văn Học, 2007) và Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng) của Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng (NXB Sống Mới, Sài Gòn, 1968)
2. Năm sinh ghi theo Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam (Nxb VH-TT, 1998) và Việt Nam thi nhân tiền chiến (sách đã dẫn). Từ điển Văn học (bộ mới, Nxb Thế giới, 2004) ghi ông sinh năm 1912.
3. Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn hiện đại, tập hai, NXB KHXH, 1989
4. Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng, sách đã dẫn, tr.442
5. Nhà văn hiện đại, tr.1146
6. Thi nhân tiền chiến, NXB Văn Học, 1988, tr.107-108
7. Hồn Thơ nước Việt thế kỷ xx. NXB Sơn Quang, Sài Gòn, 1967
8. Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng), tr. 438, 448,460.




Sách tham khảo 
Hoài Thanh-Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam. Nhà xuất bản Văn học in lại năm 1988.
Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn hiện đại (tập hai) Nhà xuất bản KH-XH, 1989.
Nguyễn Vỹ, Văn Thi sĩ tiền chiến. Nhà xuất bản. Văn Học in lại năm 2007.
Nguyễn Tấn Long-Nguyễn Hữu Trọng, Việt Nam thi nhân tiền chiến (Quyển thượng). Nhà xuất bản. Sống Mới, Sài Gòn, 1968.
Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản VH-TT, 1998.
Từ điển Văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.




















Thủ bút của Nguyễn Vỹ

















Về một bài trong quyển Thi nhân Việt Nam

Bài của Nguyễn Vỹ 



Ông Hoài Thanh xuất bản quyển Thi nhân Việt Nam năm 1943 mà mãi 14 năm sau, đến năm 1957 tôi mới được đọc. Quyển sách ra đời trong thời gian tôi ở tù 5 năm, rồi sau đó trong nước có chiến tranh, sách báo không lưu hành được dễ dàng, và tôi hoàn toàn không biết có quyền sách ấy cho đến năm 1957 mới trông thấy nó, lần đầu tiên, do một người bạn cho mượn. Quyển sách đã rách nát hết bìa, chỉ còn trên một trăm trang ruột.

Lật sách ra coi, tôi hết sức ngạc nhiên về bài nói đến tôi. Ông khởi đầu bằng một lời phê bình lạ lùng: “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai…”

Không biết ông Hoài Thanh lấy theo tài liệu lịch sử nào mà ghi chép như thế? Quyển Tập thơ Đầu ra đời năm 1934 – lúc bấy giờ sự thật tôi mới có 22 tuổi, chỉ là một cuộc trình diễn rụt rè và im lặng.

Tập thơ Đầu – Premières: Poésies chỉ gồm có năm sáu bài thơ Việt và sáu bài thơ Pháp, mà tôi làm chơi, chép lẫn lộn trong một xấp giấy. Trương Tửu trông thấy, lấy đưa Lưu Trọng Lư xem, rồi chính Lư đưa nhà in Tân Dân in dùm mà tôi không có tiền trả. Lưu Trọng Lư cũng không có tiền. Trương Tửu cũng vậy. Thành thử từ khi Tập thơ Đầu được in chịu và chỉ phát hành ở Hà Nội thôi, mãi hai năm sau tôi mới trả được tiền in cho ông chủ nhà in, Vũ Đình Long. Sách in ra gởi bán, không có một quảng cáo nhỏ và toàn thể báo chí Hà thành cũng im lặng trong một tháng trời, không có một lời giới thiệu. Tập thơ mỏng mảnh, không có tranh vẽ, không có màu mè, cũng không có một lời tựa của tác giả hoặc của ai. Lưu Trọng Lư muốn có mấy lời giới thiệu nơi trang đầu tập thơ, tôi không bằng lòng.

Như thế, trong quyển Thi nhân Việt Nam, ông Hoài Thanh bảo “Nguyễn Vỹ đã đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng inh cả tai…”, thì thật là sai hẳn với thực tế lịch sử hồi đó.

Bỗng dưng, một tháng sau, tờ báo đầu tiên ban cho tôi một hân hạnh đặc biệt là tờ tuần báo Pháp văn L’ Annam Nouveau của cụ Nguyễn Văn Vĩnh.

Trong một cột dài, tờ báo ấy khen nhiều bài trong Tập thơ Đầu, cả thơ Việt văn lẫn thơ Pháp văn. Tôi nhớ báo ấy trích cả đoạn dài của bài Débris d’aile et Desbris d’Ell và bài Đức thánh Đồng đen. Cách mấy số sau, cũng trong L’ Annam Nouveau, Nguyễn Nhược Pháp viết một bài phê bình rất có cảm tình nồng hậu.

Tôi thật cám ơn hai bài báo ấy. Nhưng, tiếp sau đó, Thế Lữ với một bài dài đăng trong tuần báo Phong hóa, đả kích nhiệt liệt mấy bài thơ Việt văn của tôi. Ông bảo tôi “dốt”, ông chê tôi “bất tài”. Rồi mấy chàng “Thi sĩ” vây cánh với Thế Lữ – hiện nay hình như không còn được mấy người – cũng nhao nhao nổi lên viết trong vài tờ báo khác những bài mạt sát tôi và mấy bài thơ của tôi.



Cuộc đả kích đột ngột và tàn nhẫn ấy có mục đích đánh cho tôi quỵ xuống và dìm tôi xuống đất bùn. Nhất là bài của Thế Lữ, viết với giọng ngạo nghễ, kiêu căng, tự cao tự phụ. Thế Lữ lúc bấy giờ là ông trùm của một phe “thi sĩ” chuyên môn tâng bốc anh chàng để được chen chân vào Tự lực văn đoàn.

Cuộc đả kích hỗn xược và ồn ào ấy, đối với tôi chỉ là một thử thách nhất thời mà tôi phải chịu đựng. Nhưng nhiều bạn làng thơ, làng văn, tỏ lòng phẫn nộ. Trong số đó, có một thiếu nữ xa lạ mới 18 tuổi, ở tận rừng núi Phủ Lạng Thương, tên Mộng Sơn gởi bài công kích Thế Lữ, nhưng Thế Lữ không đăng. Để hưởng ứng với tôi, và trả lời cuộc đả kích hằn học của Thế Lữ, Mộng Sơn gởi đăng trong các báo văn nghệ ở Hà Nội những bài thơ của Mộng Sơn theo lối thơ riêng của tôi, nhất là trong báo Đông phương và Văn học tạp chí. Lan Khai, Trương Tửu, Lưu Trọng Lư, Lê Tràng Kiều, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Đức Quỳnh, Phạm Huy Thông, Vũ Trọng Phụng, là những bạn làng văn, làng thơ ở Hà Nội, đã công kích Thế Lữ và bênh vực tôi. Tôi rất cảm ơn mấy bạn ấy.


Riêng tôi vẫn im lặng. Mãi về sau do sự giục của Lan Khai, tôi chỉ viết một lời phi lộ trong báo Đông phương để xác minh một vài chủ trương của tôi về thơ ca Việt Nam hồi bấy giờ.

Sau đó, Trương Tửu diễn thuyết ở nhà hội Khai trí Tiến Đức, về thơ của tôi. Cuộc diễn thuyết này rất sôi nổi. Đêm diễn thuyết tôi không đi nghe, nhưng các báo tường thuật cho biết thính giả rất hoan nghênh. Duy có Thế Lữ là mạt sát hăng hơn nữa. Thơ tôi lại bị anh ta đem ra làm mắm, giữa tiếng hoan hô hùa theo của các thi sĩ che tàn nhóm “văn phiệt”.

Có lẽ ông Hoài Thanh, bạn của nhóm Thế Lữ, thấy mấy bài thơ của tôi (sự thực hồi đó mới chỉ có năm ba bài thôi) đã gây ra một cuộc sóng gió xôn xao trong làng thơ Bắc Việt mà ông phao vu ngay rằng tôi “đến giữa làng thơ với chiêng, trống, xập xoèng…” chăng? Chiêng, trống, xập xoèng, là do người ta đánh lên đấy chứ, mà nhứt là do tay Thế Lữ, như thể một cuộc báo động kinh khủng vậy! Chớ riêng tôi, chỉ lặng lẽ đưa Tập thơ Đầu mỏng mảnh kia ra, không hề dám ho lên một tiếng!

Tài liệu lịch sử văn học hồi đó còn để lại rành rành chứ nói bá xàm bà láp được ư?

Tôi biết ông Hoài Thanh là một người phục thơ Thế Lữ, nhưng phục thơ Thế Lữ thì ông cứ tự do ca tụng nhà Thơ ấy, chứ sao ông lại hùa theo chàng mà vác gậy đập tôi? Đập tôi, sau rồi lại vuốt ve tôi?

Ông Hoài Thanh muốn mạt sát tôi, ông phê bình tôi có “cái lối ăn mặc và điệu bộ lố lăng”… Lối ăn mặc của tôi hồi ấy là lối ăn mặc của một người sinh viên nghèo. Tóc không có brillantine để chải cho bóng, quần áo của bạn bè giúp cho, sơ mi rách vá, giày tây há mồm. Ông Hoài Thanh là nhà tư bản giàu sang, y phục bảnh bao, thấy tôi áo quần xốc xếch như vậy thì cho rằng tôi “ăn mặc và điệu bộ lố lăng”?? Có phải “điệu bộ lố lăng” là điệu bộ của một chàng thanh niên trời rét mướt không có áo trench-coat như ông, không có pardessus, không có mũ, đi đâu cũng phải đút hai tay trong quần cho đỡ lạnh mà vẫn run run cầm cập? Có phải thế không?

Ông giới thiệu tôi như thế với người của thế hệ, thì thật là vinh dự cho tôi quá!

Nhưng dù sao, ông Hoài Thanh viết một quyển sách văn học sử, mà ông phê bình cả lối “ăn mặc lố lăng” và “chiêng, trống, xập xoèng”, thì tôi thấy ông đi quá mức rồi đó. Ông viết một quyển sách để lại cho hậu thế mà y như ông viết một bài báo cho độc giả nhất thời, để thỏa mãn một thái độ cá nhân của ông, thì ông kém cả lễ độ văn hóa vừa nhận xét chủ quan quá đáng, không xứng đáng một tác giả ký tên trên một quyển sách nhan đề Thi nhân Việt Nam.

Về phần giá trị văn thơ của tôi, ông mâu thuẫn với ông một cách rất bất ngờ. Ở đoạn trên, ông viết: “Lúc đầu, ta thấy con người ấy không có gì”, “rất tầm thường”, rồi đoạn dưới ông viết: “người ta thấy Nguyễn Vỹ sáng tạo ra một nhạc điệu riêng…” Rồi ông lại viết: “Bài Gửi Trương Tửu thật là một kiệt tác”. Ủa! Té ra “con người rất tầm thường” kia, “chỉ lòe với những kẻ tầm thường” mà lại có thể “sáng tạo ra một nhạc điệu riêng” và viết ra “một kiệt tác” như ông nói ư? Ông lại viết: “Ta xem thơ, có thể khóc lên được”. Thưa ông, tôi không dám ạ, ông khen quá lời. Nhưng ông Hoài Thanh khóc thật à? Ông vừa mới cười tôi là “lố lăng”, ông vừa trề môi khinh khi tôi là “tầm thường”, rồi đọc bài thơ Gửi Trương Tửu, ông rỉ rả hai giòng châu lệ?

Ông Hoài Thanh giống hệt Thế Lữ. Viết chửi tôi thậm tệ hôm tháng trước, rồi tháng sau đi với Vũ Hoàng Chương đến nhà tôi mà xin lỗi và khen tôi “thâm trầm cảm động”! Tôi không phục thái độ phi văn hóa ấy.

Tập thơ Đầu xuất bản năm 1934. Ông Hoài Thanh viết về tôi trong Thi nhân Việt Nam năm 1941, năm 1941. Trong thời gian vỏn vẹn 7 năm qua, tôi bị tù một lần sáu tháng (1937) và một lần 5 năm (1940 -1945). Thành thử ngoài Tập thơ Đầu chỉ có 5 hay 6 bài, bị Thế Lữ công kích nhiệt liệt, nhất là bài Đức thánh Đồng đen, tôi chỉ còn đăng rải rác trong hai tờ tuần báo Văn nghệ bài Gửi Trương Tửu và Sương rơi, và một vài bài gì nữa thôi. Ngoài ra, tôi bận công việc khác, không có thì giờ làm thơ đăng báo.

Một lý do nữa là hồi đó tôi mới có 22 tuổi gì đó thôi và tôi tin rằng tôi chưa có nhiều kinh nghiệm về đời, chưa sống nhiều, chưa đau khổ nhiều, tâm hồn chưa rắn rỏi, tư tưởng chưa cô đọng, thi tứ chưa phong phú, tình cảm chưa dồi dào, thì không nên làm thơ vội.

Mãi đến khi ở tù ra lần sau này, tôi mới đáp lại tiếng gọi của tâm hồn thơ rạo rực từ lâu. Tôi đã viết vài trăm bài mà đến nay vẫn chưa có điều kiện in thành sách được. Vậy thì ông Hoài Thanh viết trong Thi nhân Việt Nam “Trường thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ chỉ còn lưu lại một bài Sương rơi”, tôi sợ ông nhận xét có hơi vội vàng quá chăng? Ông ấy làm như thể tôi đã chết năm 1941 rồi, không còn ở trên trần gian để làm thơ được nữa! Tôi mới bị đi ở tù, chớ đã rục xương đâu, mà ông ấy đã quả quyết như đã đậy nắp hòm cho tôi rồi vậy! Cứ nói đến 1941, thì ông chỉ kể 1 bài Sương rơi, vậy chớ bài Gửi Trương Tửu, mà ông vừa đọc vừa khóc thảm thiết đó, không phải là Thơ Bạch Nga của Nguyễn Vỹ ư? Té ra ông ấy cũng chẳng hiểu Thơ Bạch Nga là gì! Thế mà ông ấy dám viết sách về văn học sử. Ông Hoài Thanh táo bạo thật!




Tôi viết bài này chỉ đáp lại thịnh tình của một số đông bạn làng thơ của thế hệ ngày nay, đã nhiều lần yêu cầu tôi cho biết ý kiến về bài nói đến tôi trong quyền Thi nhân Việt Nam.

Lâu nay, tôi đã chủ trương nhiều tờ báo và tạp chí văn nghệ, nhưng tôi không muốn nói đến quyền sách ấy. Vì tôi nghĩ không cần phải vội xác minh thái độ đối với một chương sách nói đến tôi từ năm 1941, trong lúc tôi bị tù. Và tôi nghĩ rằng sớm hay muộn tôi cũng sẽ ra mấy quyển thơ, trong đó tôi sẽ đặt dấu chấm trên chữ i.

Ngày nay, tôi rất tiếc ông Hoài Thanh không có mặt ở Việt Nam tự do (Sài Gòn trước 1975- LLVH). Nhưng tôi có phần tin chắc rằng bằng cách này hay cách khác tạp chí Phổ thông vẫn lén lút ra đến Hà Nội. Vậy nếu đọc bài này ông Hoài Thanh muốn trả lời trên một tờ báo nào ở ngoài ấy, tôi sẽ tìm đọc ông. Và nếu ông muốn, tôi sẽ đăng bài trả lời của ông trên tạp chí Phổ thông.

Có điều xin ông biết rằng ngày nay ông không thể dìm tôi được nữa như hồi 1941. Chứng cớ là lúc quyển sách ra đời thì tôi bị ở tù nhưng 18 năm sau, đến nay tôi vẫn có cơ hội chỉ những chỗ sai lầm ác ý của ông và nhận xét chân tướng của quyển sách vô giá trị kia.

(Phổ thông số 9, ngày 15 tháng 4 năm 1959)




















Tham khảo thêm về tác giả Nguyễn Vỹ





Về bài thơ Tiếng thu: của Lư hay của Sarumaru?
- Nguyễn Vỹ


Có một lần ở tại nhà trọ của Lư phố Hàm Long tôi cười hỏi Lưu Trọng Lư:
-Lư ơi, bài thơ Tiếng thu có phải thật của cậu không?
Có Nguyễn Xuân Huy ngồi đấy, Lư “cười như nắc nẻ”:
-Thằng này mơ mộng thật! Mi tưởng bài đó của Thế Lữ à?
-Thế Lữ làm gì nổi một bài thơ như thế.
- Nhưng tao có đọc một bài thơ của một thi sĩ Nhật Bản, giống hệt bài thơ của mày, và bài thơ Nhật cũng tựa đề là Tiếng thu.
Lưu Trọng Lư ngó Xuân Huy:
- Huy, mầy thấy thằng Vỹ nó điên không?
Huy bảo tôi:
-Bài thơ Nhật như thế nào?
-Mày muốn chép, tao đọc cho chép. Đây là một bài Tanka nổi tiếng:
Oku yama ni
Momoji fumi wake
Naku shika no
Koe kiku toki zo
Aki wa kanashiki
Tác giả là Sarumaru, thế kỉ VIII.
Bài thơ này, Michel Revon có dịch ra Pháp văn trong quyển Anthologie des poètes japonais – (Ed. Hachette):
Combien triste est l’automne
Quand j’entends la voix
Du cerf qui brame
En foulant et dispersant les feuuilles des érables
Dans les profondeurs de la Montagne.
- Karl Petit, trong quyển La poésie japonaise (Ed. Seghers) lại dịch đảo ngược lại, nhưng đúng theo nguyên văn bài thơ Nhật:
Aux profondeurs de la Montagne
Ecartant et foulant les feuilles d’érable
Le cerf brame
Et à l’entendre ainsi,
Ah! que l’automne m’est lourdement triste!
Dịch đúng nghĩa ra Việt văn:
Trong núi rừng sâu
Ta nghe tiếng xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
Ôi buồn làm sao!
Bài Tiếng thu của Lưu Trọng Lư!

Em không nghe mùa thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.
Lưu Trọng Lư cãi liền:
- Bài của tao còn đoạn trên:

Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ.
Tôi cười:
- Cậu làm bài thơ này hồi năm nào?
- Mới đây.
- Mới đây, và mấy năm nay trong nước mình làm gì có chiến tranh, có “kẻ chinh phu” có “người cô phụ”? Tôi cho rằng cậu ghép thêm ba bốn câu đó vào bài thơ của Saramaru để tương đối đôi chút, nhưng cậu lấy trọn vẹn bản chính của Saramaru.
Lưu Trọng Lư không cãi nữa, nhưng Nguyễn Xuân Huy cười:
- Kết luận: les grands esprits se rencontrent! (Những trí óc vĩ đại thường gặp nhau!)
Lưu Trọng Lư cũng biết rằng Lư nổi tiếng là nhờ bài này, nên anh lấy tựa đề bài thơ Tiếng thu làm nhan đề cho quyển thơ của anh.
Nhân vụ này, tôi cũng cho Lưu Trọng Lư và Nguyễn Xuân Huy biết là câu thơ “Yêu là chết trong lòng một tí” của Xuân Diệu, là lấy nguyên vẹn câu của nhà văn Pháp Roland Dorgelès đề trên trang đầu quyển phóng sự hồi kí Sur la route mandarine:
Partir c’est mourir un peu
(Đi, là chết trong lòng một tí).
Chỉ đổi động từ Partir thành Yêu mà thôi.
Cũng như tất cả những truyện ngắn của Đoàn Phú Tứ trong tập truyện Những bức thư tình, đều dịch ra từ các truyện của các nhà văn Pháp: Jules Renard, Courteline, P. Benoit, Secha Guitry.
Đoàn Phú Tứ dịch hẳn ra Việt văn, chứ không phải phóng tác, hay “phỏng dịch”, mà anh ta lờ luôn “xuất xứ”, tự đề tên tác giả là Đoàn Phú Tứ?
Cũng hôm ấy, Nguyễn Xuân Huy và Lưu Trọng Lư bảo tôi viết một bài trong Hà Nội báo, phê bình tập truyện của Đoàn Phú Tứ, với câu kết luận là “trả lại César cái gì của César”. Bài đó có đăng hai trang Hà Nội báo của Lê Tràng Kiều.

Nguồn: Văn thi sĩ tiền chiến, Nguyễn Vỹ, NXB Khai Trí, 1969









Nguyễn Vỹ, nhà hoạt động văn hóa không mệt mỏi
Đào Đức Nhuận



TAO ĐÀN BẠCH NGA CỦA NGUYỄN VỸ



Thuở còn bé ở Sa đéc, tôi ở với người cậu Năm là một nhà trí thức mới ở tỉnh nhà. Nhà nghèo nhưng sách vở không thiếu quyển gì, nhất là báo chí của thời kỳ đó. Thường thì tôi lén lấy xem trong lúc cậu tôi đi làm ở tòa hòa giải Sa Đéc. Tôi coi hết các báo trong đó có tờ Phổ thông bán nguyệt san khá mỏng với những nhà văn như Lê Tràng kiều, Thượng Sỹ…

Thời gian qua, sách vở xưa hầu như rêu mốc cả, cậu tôi đi quân dịch rồi đi luôn. Tôi với bà ngoại phải lên Saigon ở nương náu nhà người cậu Tư, nhưng không ở lâu được tôi bỏ nhà ra đi bụi đời từ năm mười lăm, mười sáu tuổi.

Tôi nhớ lại năm 1963, ông Nguyễn Vỹ có cho tôi ba ngàn đồng tiền riêng để tôi in tập thơ đầu tiên Thơ Trần Tuấn Kiệt do Bùi Giáng đề tựa và Nguyễn Trung vẽ bìa.

Thời kỳ sung túc nhất của báo Phổ Thông sau này khác với Phổ Thông bán nguyệt san thời xưa, thời tiền chiến. Báo quy tụ hầu hết các nhân vật tên tuổi, các nhà văn hóa từ Bắc di cư vào và các nhà văn miền Nam như Thiếu Sơn, ông Triệu Công Minh là chồng bà Ái Lan tên tuổi lẫy lừng thời đó.

Tôi không làm hẳn ở Phổ Thông, chỉ đến chơi với Nguyễn Thu Minh và vợ là Phương Duyên. Hai người này đều có chân trong tao đàn của Nguyễn Vỹ. Đó là thi đàn Bạch Nga lấy tờ nguyệt san Phổ Thông làm diễn đàn. Tao đàn Bạch Nga có Nguyễn Vỹ làm chủ soái. Nguyễn Thu Minh làm thư ký và rất đông các thi sĩ đương thời góp mặt như cô Thu Nhi, Tôn Nữ Hỷ Khương, Minh Đức Hoài Trinh (Pháp), Ngọc Hân, Phương Đài, Thùy Dương Tử, Tuệ Mai, bác sĩ Nguyễn Tuấn Phát và tôi.

Lúc này tôi đồng ý vào tao đàn Bạch Nga với Nguyễn Vỹ làm thơ 2 chữ, 10 chữ, 12 chữ, tất nhiên là còn các loại thơ khác. Mỗi năm Tao đàn Bạch Nga mở cuộc thi sáng tác thơ tự do. Tôi phụ trách chấm thi hầu hết các giải này, nhờ thế tôi khám phá ra nhà thơ Thùy Dương Tử ở Quảng Nam làm thơ thật hay để chấm anh giải nhất của Tao đàn Bạch Nga.

Sở dĩ ông Nguyễn Vỹ không bắt buộc các nhà thơ làm thơ làm thơ 2 cước, 8 cước, 12 cước như ông để tránh bị phản đối kịch liệt như thơ tiền chiến. Thời đó ông ở nhóm Hàn Thuyên có Đặng Thái Mai, Nguyễn Đức Quỳnh… theo thuyết xã hội thường phê phán các tác phẩm của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam chủ trương Tự Lực văn đoàn. Nổi bật nhất là cụ Thượng Sỹ đưa ra nhiều bài phê bình các tác giả thời đó, tất nhiên là bị nhóm Tự lực văn đoàn tấn công lại dữ dội.

Nguyễn Vỹ nêu lên cách làm thơ hai chữ, mười hai chữ như Tây. Người công kích ông nhiều nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong Thi nhân Viêt Nam cho Nguyễn Vỹ là bất tài, khua chiêng trống rùm beng mà thôi. Tôi cũng một thời gian chịu ảnh hưởng sự công kích ấy nên sau này khi soạn Thi Ca Việt Nam Hiện Đại, sách dầy 1300 trang do nhà Khai Trí in và tái bản vài lần ở Mỹ, tôi cũng lên tiếng chỉ trích. Công tâm nhận xét thì ông Nguyễn Vỹ đã cố gắng phổ biến Tao đàn Bạch Nga, cổ súy cho thơ từ 2 chữ đến 12 chữ theo Âu châu cũng là ý kiến tốt, muốn đổi mới nghệ thuật thơ mới vì thơ cũ ở VN thời đó đã khá nhàm. Thi phẩm Hoang Vu của ông có giá trị ngang hàng với tất cả những thi nhân đương thời và cả ngày nay.

Phong cách Âu châu, tư tưởng cấp tiến của ông thời đó đã làm xốn con mắt của nhiều người đương thời nhất là Hoài Chân, Hoài Thanh trong khi quyển thi nhân VN của Hoài Chân Hoài Thanh tái bản luôn mà không sửa đổi gì cả. Thế ra cái án văn chương này vẫn còn tiền lệ tạo ra sự coi thường nhà thơ Nguyễn Vỹ bất công đến bao giờ.

Trong bài thơ nổi tiếng Gửi Trương Tửu, Nguyễn Vỹ đã than thở : Nhà văn An Nam khổ như chó. Quả vậy, Vita tác giả Mây Ngàn chết vì lao bên Pháp, Vũ Trọng Phụng chết vì lao ở VN, Anh Hợp chết bên đống rác hay Hàn Mặc Tử lẩn lút đau thương trọn đời về bệnh cùi. Lê Văn Trương do anh em chôn cất lúc đó Nguyễn Vỹ lo liệu gần hết, chôn xong thì căn nhà của Lê Văn Trương vừa bán ở đường Trần Hưng Đạo phải giao cho người ta. Cụ Tam Ích tuy được gia đình lo cho đầy đủ nhưng có lần ngồi quán ở Cao Thắng với TTKiệt, cụ cũng nói :

– Mày đi mua cho thày mấy viên aspirin.

Bài thơ của Nguyễn Vỹ đã lột lên chân tướng xã hội của các nhà văn đương thời. Ta thử nhìn lại loại thi ca thời tiền chiến, Xuân Diệu ca ngợi ân tình quên đi những kiếp người khốn khổ. Bài thơ Lời Kỹ Nữ có có cái thi hứng phong lưu thời đại hơn là lột trần ra sự cùng khổ thời đại như Victor Hugo, Chế Lan Viên ca ngợi đất nước Chiêm Thành cũ và nói về sự vong quốc, Quách Tấn ảnh hưởng nặng nề của Trung quốc, Vũ Hoàng Chương viết Kinh Kha sang Tần… Thời đại ấy làm thơ viết văn tả thực dường như chỉ có Gởi Trương Tửu là tiêu biểu nhất. Thế mà Hoài Thanh Hoài Chân đã phớt lờ hay nhắc rất ít lời. Quả nhiên là có nhiều vị kỷ, thiên kiến mà ra vậy.

Mặc dù thời trai trẻ than thở Nhà văn An nam khổ như chó nhưng đến trung niên thì đất nước chia đôi. Các nhà thơ di cư vào Nam, xuất bản sách vở báo chí ra được nhiều độc giả chào đón nồng nhiệt. Báo Phổ thông lúc bán chạy nhất lên đến hai mươi lăm ngàn số. Nguyễn Vỹ rất nhiệt tình giúp đỡ các nhà văn cũ như Lê Tràng Kiều, Vũ Bằng. Một nhà văn lão thành là cụ Đàm Quang Thiện đã dịch Thần thoại Hy Lạp cho Phổ thông, cả Thẩm Thệ Hà, Thanh Việt Thanh và nhất là Lê Văn Trương khi còn sống.

Tao đàn Bạch Nga rất đông vui, lúc nào cũng có các thi sĩ trẻ đến chơi và nhập đoàn. Phạm Công Thiện cũng dịch cho báo. Nguyễn Vỹ gây dựng được thanh thế và giàu có. Ông sắm xe hơi đắt tiền, mướn lầu ở gần Cầu Kho đầy đủ mọi phương tiện. Nhưng có tài thì có tật, đó là điều người đời dị nghị về ông nhiều. Ngoài gái gọi mà tôi thường gặp ở căn lầu đó, nhiều phụ nữ khác đến với ông vì chuộng danh tiếng tài năng của ông. Vì thế sự ganh tỵ về bè nhóm cũng không phải là ít.

Một hôm tại nhà của bà chị thi sĩ Bích Khê (Tinh Huyết thi phẩm) giữa lúc đông có cả Đinh Hùng, Đinh Cường, ông Nguyễn Vỹ cầm tập Thơ Trần Tuấn Kiệt mới xuất bản và dường như có giới thiệu tôi là một thiên tài mới xuất hiện. Sau đó một năm, tôi cho in quyển Thơ Nai và gởi tặng nhà thơ Đinh Hùng ở ban Tao Đàn trên đài Phát thanh Saigon. Lúc này cụ Lam Giang Nguyễn Quang Trứ có đề xuất tôi cộng tác cho Đài Phát thanh, giám đốc là nhà thơ Phạm Xuân Ninh tức Hà Thượng Nhân.


 

Một buổi sáng, chợt họa sĩ Nghiêu Đề chạy đến hỏi :
– Mày có nghe chương trình Tao đàn chưa ?
– Tao không nghe. Có gì không ?
Nghiêu Đề nói :
– Hồi tối Tao đàn đọc thơ mày trên đài nhưng có vẻ tấn công mày.
Tôi nổi dóa, lập tức đi lên Đài phát thanh ghé vào văn phòng Hà Thượng Nhân hỏi :
– Đêm hôm qua Đinh Hùng tấn công thơ tôi trên đài, ông có biết không ?
Hà Thượng Nhân từ tốn nói :
– Tôi có nghe, mà Đinh Hùng đâu có chê gì đâu ?
– Để tôi lấy bài viết của Đinh Hùng cho ông xem lại.

Tôi bỏ đi xuống lầu, đến chỗ ngăn để bài, lấy ngay bài của Đinh Hùng trong ngăn mục Tao đàn ra xem qua, lên trao Hà Thượng Nhân rồi bỏ về nhà.

Từ khi tôi in Thơ Trần Tuấn Kiệt và Thơ Nai, các báo chí đều viết khen ngợi, không ai chê cả nên tạo cho tuổi trẻ của tôi lúc đó sự kiêu hãnh. Nay đọc bài viết của Đinh Hùng nói thơ Trần Tuấn Kiệt chịu ảnh hưởng Haikai, tanka… của Nhật bản. Tôi bực bội bèn viết một bài trả lời Đinh Hùng đem đến Phổ Thông. Trong đó tôi tấn công dữ dội Tao Đàn, trả lời cho Đinh Hùng biết loại thơ nhỏ vài ba câu do tôi sáng tạo chứ không hề chịu ảnh hưởng gì của Nhật cả. Thơ Nhật ngoài thi hào Basho, ít có thi sĩ làm thơ hay, kém cả thơ Tàu, thơ Tây nhiều, không thể nói tôi chịu ảnh hưởng thơ Nhật được. Tôi tấn công Đinh Hùng là vọng ngoại và thách ông đấu thơ với tôi ở bất cứ nơi nào.

Nguyễn Vỹ thấy trầm trọng quá nên lưỡng lự không dám đăng. Một là sợ xảy ra bút chiến, hai là thế lực Đinh Hùng rất mạnh. Ông này là bạn của cố vấn Ngô Đình Nhu, thường nằm hút chung mâm đèn với cố vấn. Chỉ cần cố vấn gặc cái dọc tẩu xuống mâm đèn, ra lệnh một tiếng thì Nguyễn Vỹ và tôi bị mật vụ hỏi thăm sức khỏe ngay.

Nguyễn Vỹ trả lại bài viết, tôi cả giận nói :
– Ông không đăng bài tôi trả lời trên Phổ thông, tôi sẽ đăng báo khác.
Lúc đó một thiếu nữ trẻ trung xinh đẹp đi vào, cũng là thi sĩ của tao đàn Bạch Nga, chị Ngọc Hân nói với Nguyễn Vỹ :
– Đăng bài trả lời của anh Kiệt đi anh.
Nguyễn Vỹ nghe nói bèn chiều lòng nàng, bảo với tôi :
– Thôi anh đem bài cho chef typo sắp chữ

Lúc này anh Năm Ô tức thi sĩ Nguyễn Vương, một người thợ sắp chữ và trình bày cho báo Phổ thông, sau đó là báo Nghệ thuật của Mai Thảo, anh cùng quê với tôi ở Sa Đéc, lập tức chia bài cho thợ xếp chữ ngay cho kịp số báo tới. Bài báo vô tình tạo ra một hố ngăn cách và hiềm khích mãnh liệt giữa hai bên.

Tao đàn Bạch Nga ở được một thời gian khi báo Phổ thông lên, rồi đến thời kỳ sa sút, Phổ thông bán ế dần cho đến khi chỉ còn một ngàn số.

Đó là vì thời đại này có nhiều báo ra đời như Văn hóa Ngày nay, Tân Phong của Nhất Linh , báo Văn do Trần Phong Giao làm thư ký, Văn học, nhất là các báo Tiểu thuyết Thứ Bảy… lấy hết độc giả của Nguyễn Vỹ, nhiều lần tôi đề nghị thay đổi từ nội dung cho đến cách trình bày nhưng Nguyễn Vỹ là người kỳ cựu trong làng báo, không khi nào nghe lời một thanh niên còn quá trẻ như tôi, ông trở thành bảo thủ hơn nữa. Khi báo thất bại, Nguyễn Vỹ thường rủ anh em đến chùa Cổ Sơn Môn chơi giải khuây.

Càng ngày có nhiều báo mới ra, nguyệt san Thời Nay toàn dịch tài liệu trên báo ngoại quốc như Selection. Tờ này lấy rất nhiều độc giả của Phổ Thông vì tin tức và bài vở ăn khách. Ngoài ra còn Văn của Trần Phong Giao lấy bài của các tác giả cộng tác định kỳ về in. Một vài báo của sinh viên như Huyền của Khưu Ban Lâm, Mai Vi Phúc, Nguyễn Á Châu… tôi làm thư ký tòa soạn báo này.

Đáng kể là Văn hóa Ngày nay của Nhất Linh, đối với tờ này là Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Hoàng Bảo Việt, Vương Tân, Trần Dạ Từ… Họ viết nhiều đến chủ nghĩa hiện sinh. Đó là thời của Hiện sinh, ai cũng thích đọc và nghiên cứu về thi ca siêu thực của Breton và các tác giả mới của văn hóa hiện đại. Có cả Văn Nghệ do anh ruột của thi sĩ Quách Thoại là là Đoàn Tường trông nom.

Nguyễn Vỹ và tao đàn Bạch Nga như đóa hoa héo dần, sau này Phổ Thông in một ngàn số mà cũng rất khó bán. Nguyễn Vỹ còn cho ra đời nhật báo Dân Ta do Hải Âu làm tổng thư ký và ông Triệu Công Minh, chồng bà Ái Lan, mới ở Pháp về, hợp tác. Độc gỉả quên dần Phổ Thông để đọc các báo mới từ văn nghệ đến văn học nghệ thuật đều tân tiến.

Anh em chúng tôi làm báo Ngàn Khơi của Nguyễn Hữu Đông rồi tạp chí Tiếng Nói của Trần Dạ Từ. Các báo Văn học, Thế Kỷ Hai Mươi, Đại Học và rất nhiều báo khác tự do ra đời. Các tờ báo như Giáo Dục dường như có bài của Kiêm Đạt. Giáo sư Nguyễn Duy Diễn được giới học sinh và phụ huynh sốt sắng ủng hộ. Tân Phong, Thẩm Mỹ, Phụ Nữ Diễn Đàn có nhiều độc giả, Bình Nguyên Lộc ra báo Vui Sống. Quá nhiều sách báo in ấn thời đó phổ biến tư tưởng văn hóa Âu Mỹ ào ạt vào VN được giới trẻ hưởng ứng.

Lần cuối cùng tôi gặp Nguyễn Vỹ và cụ Đàm Quang Thiện, người dịch thần thoại Hy Lạp cho báo Phổ Thông ở Ngã Bảy rồi sau đó Nguyễn Vỹ mất vì tai nạn xe ở Tân An lúc gần Tết. Ngọc Hân là thi sĩ duyên dáng và vui tính trong tao đàn Bạch Nga, người đã nói Nguyễn Vỹ đăng bài Trả Lời Đinh Hùng của tôi. Sau này chị làm nghề nhiếp ảnh, có lần tôi gặp tại Thị Nghè, bây giờ con cháu đầy đàn cả rồi. Nhắc lại thời Tao Đàn Bạch Nga, tôi và chị, ai nấy đều như luyến tiếc một điều gì đó, một thời tự do của tuổi trẻ đã mất rồi.

Sa Giang – Trần Tuấn Kiệt




MDTG là một webblog mở để mỗi ngày một hoàn thiện, cập nhật sáng tác mới cho từng trang và chỉ có thể hoàn hảo nhờ sự cộng tác của tất cả các tác giả và độc giả.
MDTG xin chân thành cảm ơn sự ủng hộ tinh thần của các văn hữu đã gởi tặng hình ảnh và tư liệu đến webblog từ nhiều năm qua.